Nhà Nguyễn – lịch sử thăng trầm của một dòng họ (Kỳ cuối): – Khơi dòng lịch sử

sIpaTsw4
Tuy nhiên, sự nhìn nhận so với vương triều Nguyễn có vẻ như đặc biệt quan trọng hơn so với những triều đại khác trong lịch sử vẻ vang nước ta. Đặc biệt ở chỗ nhiều người chưa có được sự nhất trí trong nhận thức và sự giống nhau trong quan điểm. Chẳng hạn có người cho rằng nhờ có nhà Nguyễn nên nước ta mới có được một quốc gia to lớn và hoàn hảo như thời nay, cũng có người lên án nhà Nguyễn là một triều đại “ bán nước ” .
sIpaTsw4.jpgPhóng toĐà Nẵng lấy tên chúa Nguyễn Hoàng đặt cho một con đường ở quận Hải Châu trung tâm thành phố -Ảnh: Đoàn CườngThịnh rồi suy
Vương triều Nguyễn chỉ mới được xây dựng một cách chính thức vào đầu thế kỷ 19, nhưng sự chuẩn bị sẵn sàng để đi đến hiệu quả đó đã khởi đầu từ rất lâu, muộn lắm là cũng vào thế kỷ 17. Theo bước thăng trầm của lịch sử dân tộc mọi triều đại phong kiến, ngai vàng của những chúa Nguyễn Đàng Trong đã bị lung lay ngay sau cái chết của chúa Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765. Từ đó, Quốc phó Trương Phúc Loan, một con người vừa tham quyền vừa tham tiền, đã khuấy động cả triều đình Phú Xuân .

Bằng mọi thủ đoạn gian ác, ông đã đưa hoàng tử thứ 16 của vị chúa thứ 8 Nguyễn Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên nối ngôi để lợi dụng. Sự lộng quyền của Trương Phúc Loan đã làm bộ máy cai trị của nhà chúa yếu kém dần và lâm vào tình trạng “dột từ nóc dột xuống”.

Đó chính là nguyên do khiến ba đồng đội nhà Tây Sơn nổi dậy ở Quy Nhơn vào năm 1771. Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh Gia Định, chúa tôi nhà Nguyễn phải chạy xuống Định Tường, Cần Thơ rồi Long Xuyên. Quân Tây Sơn đuổi theo, bắt được chúa và đoàn tùy tùng, họ đều bị giết, chỉ trừ Nguyễn Phúc Ánh kịp thời rời đất liền ra trốn tránh ở hòn đảo Thổ Châu .
Sau đó, ông trở lại Long Xuyên tụ tập được 1 số ít người thân tín và tái khởi binh đánh chiếm lại Hồ Chí Minh. “ Rồi từ đó, suốt 24 năm trời, từ năm 1778 – 1802, Nguyễn ( Phúc ) Ánh liên tục chống lại quân địch họ Nguyễn. Cuối cùng ông kiến thiết xây dựng được cơ đồ cũ, lên ngôi với đế hiệu Gia Long, quản lý trên một lĩnh thổ to rộng hơn khi nào hết về trước, và lĩnh thổ này chính ông đã đặt cho tên Nước Ta ” ( Nguyễn Phương, 82 năm Việt sử, 1802 – 1884, Đại học Sư phạm Huế xuất bản, 1963 ) .
Nếu nói công minh thì sự thống nhất vương quốc vào đầu thế kỷ 19 không phải là công riêng của ông vua đầu triều Nguyễn là Gia Long, mà nó đã được đặt sẵn nền tảng trước đó xấp xỉ hai thập niên với việc xóa bỏ ranh giới sông Gianh khi quân Trịnh mở cuộc Nam chinh vào đầu năm 1775, và nhất là lúc nhà vua Quang Trung mở cuộc Bắc phạt vào năm 1788. Việc thiết lập vương triều Nguyễn cũng dựa trên nền tảng của 1 số ít triều đại nhiệm kỳ trước đó trong dòng chảy của lịch sử dân tộc dân tộc bản địa, mà nền tảng và quan trọng nhất của vương triều này vẫn là thời của những chúa Nguyễn .
“ Thà làm dân một nước độc lập ”
Gia Long là vị vua khai sáng vương triều Nguyễn, lê dài 143 năm ( 1802 – 1945 ) qua 13 đời vua. Nay nhìn lại lịch sử dân tộc 143 năm trải qua 13 đời vua ấy, những nhà sử học dễ nhất trí với nhau rằng hoàn toàn có thể chia đại khái ra làm hai quá trình. Giai đoạn độc lập tự chủ sống sót dưới đời những vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và một phần đời vua Tự Đức. Nhưng sau cái chết của vị vua thứ tư này thì thực dân Pháp đã hoàn toàn có thể gây áp lực đè nén trực tiếp lên chính triều đình Huế, buộc Nam triều phải ký hiệp ước Patenôtre ( 6-6-1884 ) và tước đoạt nền độc lập của Nước Ta .
Mặc dù ngay sau đó, ngọn lửa giành lại chủ quyền lãnh thổ có lóe lên vào năm 1885 dưới thời Hàm Nghi, rồi Thành Thái và Duy Tân, nhưng lực bất tòng tâm, kinh đô thất thủ, Nước Ta trọn vẹn bị đặt dưới quyền quản lý của người Pháp. Vương triều Nguyễn đã để mất nước ( cho đến năm 1945 ), như chính Bảo Đại đã công bố khi thoái vị : “ Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ ” .
Khi đang viết bài này, tôi đọc được một cuộc phỏng vấn ngắn với nhà thơ Nguyễn Duy trên báo Lao Động ra ngày 16-7-2008, với nhan đề “ Người yêu nước chẳng mất ngôi khi nào ”. Đây là câu thơ mà Nguyễn Duy dùng để khởi đầu ngữ cảnh phim Đi tìm dấu tích ba vua do Đài truyền hình TP Hồ Chí Minh thực thi. Khi vấn đáp thắc mắc tại sao lại phải “ khơi dòng lịch sử vẻ vang bị nghẽn ” vào thời gian này, nhà thơ Nguyễn Duy thổ lộ : “ Cho đến giờ đây nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn so với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ khi nào lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử dân tộc và văn hóa truyền thống ” .
Nhìn chung, yếu tố nào cũng có hai mặt của nó, kể cả “ tấm huy chương ” mà một số ít sử gia, trong đó có những nhà bỉnh bút ở Quốc Sử Quán, Nội các và Hàn Lâm viện triều Nguyễn đã gắn cho vua Gia Long nói riêng và vương triều Nguyễn nói chung. Nhưng vì chính vua Gia Long là người muốn giành lại vương quyền cho dòng họ mình để xây dựng triều Nguyễn với bất kỳ giá nào, kể cả việc cầu viện ngoại bang, cho nên vì thế con cháu ông sau đó đã phải trả một cái giá rất đắt khi quân đội thực dân Pháp đến xâm lược nước ta .
Trong bài “ Vài tâm lý về vị thế xứ Huế và vị thế lịch sử dân tộc của nó ” đăng trên tạp chí Sông Hương tháng 5-6 năm 1987, giáo sư Trần Quốc Vượng đã đưa ra một nhận định và đánh giá đầy công tâm và đúng chuẩn về nhà Nguyễn : “ Có thời Nguyễn, tất cả chúng ta mới có được một Nước Ta hoàn hảo như thời nay ”. Và trong ngót hai thập niên qua, nhiều cuộc hội thảo chiến lược khoa học và nhiều khu công trình nghiên cứu và điều tra đã từ từ đem lại một cái nhìn rộng mở hơn chứ không còn nóng bức như trước so với vương triều Nguyễn .
13 đời vua triều Nguyễn

STT

HÚY DANH

NIÊN HIỆU

THỜI GIAN TRỊ VÌ

1

Nguyễn Phúc Ánh

Gia Long

1802-1819

2

Nguyễn Phúc Ðảm

Minh Mạng

1820-1840

3

Nguyễn Phúc Miên Tông

Thiệu Trị

1841-1847

4

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm

Tự Ðức

1848-1883

5

Nguyễn Phúc Ưng Chân

Dục Ðức

1883 (3 ngày)

6

Nguyễn Phúc Hồng Dật

Hiệp Hòa

1883 (4 tháng)

7

Nguyễn Phúc Ưng Ðăng

Kiến Phúc

1884

8

Nguyễn Phúc Ưng Lịch

Hàm Nghi

1885

9

Nguyễn Phúc Ưng Ðường

Ðồng Khánh

1886-1888

10

Nguyễn Phúc Bửu Lân

Thành Thái

1889-1907

11

Nguyễn Phúc Vĩnh San

Duy Tân

1907-1916

12

Nguyễn Phúc Bửu Ðảo

Khải Ðịnh

1916-1925

13

Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy

Bảo Ðại

1926-1945

___________________________

Các tin bài liên quan:

Kỳ 1: Hùng cứ một phương Kỳ 2: Chuyện về một công nữ họ NguyễnKỳ 3: Trung tâm giao thương Kỳ 4: Trên miền đất dựng nghiệpKỳ 5: Dinh xưa, cảng cũ bây giờKỳ 6: “Kinh đô kháng chiến”Kỳ 7: Sự tưởng niệm lặng lẽ

0933.54.64.76